Gói hỗ trợ của Việt Nam nhỏ về quy mô Nhưng phù hợp, nhanh lẹ, kịp thời
-Khi quan sát các chỉ số vĩ mô gần đây, ông nhận thấy điều gì?
Tôi muốn nói về tín hiệu có vẻ lạc quan thể hiện ở 2 số liệu. Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước gần đây có báo cáo tăng trưởng tín dụng của tháng 3 đâu đó trên dưới 2%, trong khi ở tháng 1, tháng 2 công ty không vay vốn. điều này có nghĩa sức sống của công ty trong thời dịch bệnh vẫn còn.
Thứ hai, doanh số xuất khẩu của Việt Nam sang các nước mặc dù tụt giảm hơn cùng kỳ Nhưng vẫn có tăng trưởng. Nó hàm nghĩa mặc dù tình hình chung là rất khó khăn Nhưng vẫn có những công ty duy trì được sự phát triển, vẫn có thị trường để hoạt động.
Bên cạnh những con số bi quan mà chúng ta đã gặp phải thì cũng có những con số khác lạc quan hơn trong bức tranh nền kinh tế.
-Cuối tuần trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có cuộc họp trực tuyến với bộ, ngành, địa phương để tìm cách tháo dỡ rất khó khăn cho công ty. Ông có cảm nhận vì về tình hình công ty thông qua cuộc làm điều này?
Trong cuộc họp có hai vấn đề được bàn luận kĩ lưỡng đó là tình hình công ty và an sinh xã hội. Chính phủ quan tâm siêu nhiều thứ đến công ty. Suy cho cùng, tăng trưởng kinh tế hay an sinh xã hội đều phụ thuộc vào năng lực sản xuất kinh doanh của công ty. công ty có hồi phục, làm ăn tốt thì mới sản sinh công ăn, việc làm…
Do đó, tại cuộc làm điều này, Chính phủ đã đưa ra những phương pháp chưa từng có trong tiền lệ để tháo dỡ những rất khó khăn cho công ty. Các giải pháp trước mắt tập trung vào tháo dỡ dòng tiền.
rất khó khăn lớn nhất của công ty lúc này là dòng tiền vì sự dừng lại của sản xuất, kinh doanh. Do đó, những giải pháp dãn, hoãn thuế, phí, hay tiếp cận tín dụng sẽ góp phần giải nguy cho công ty.
Vì thế, mặc dù gói hỗ trợ của Việt Nam nhỏ về quy mô so với các nước Nhưng cũng tương đối với quy mô GDP Việt Nam. Bên cạnh đó, gói hỗ trợ cũng kịp thời, nhanh lẹ, nắm bắt được các vấn đề của công ty.
Ngân hàng cần có sự đổi thay về quy định cho vay
-Ông có bình luận gì về gói chính sách giải cứu công ty trong đại dịch Covid-19 và những chi tiết có thể đổi thay, bổ sung nhằm tăng hiệu quả ảnh hưởng? Đặc biệt Làm cách nào để những hỗ trợ đó đến với bộ phận yếm thế hơn?
Gói giải cứu của Chính phủ không nên giới hạn vào một loại hình khu vực và một điều kiện nào. rất khó khăn đang diễn ra ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh. rất khó khăn của công ty này sẽ dẫn đến rất khó khăn của công ty khác. Do đó nếu bất kỳ doanh nghiệp nào có nhu cầu tiếp cận thì nên được tiếp cận với gói hỗ trợ này.
hiện nay nếu giới hạn việc hỗ trợ là phải chứng minh thiệt hại do dịch Covid-19 gây ra thì siêu rất khó khăn cho công ty. Làm cách nào để họ chứng minh được thiệt hại bằng chứng từ, rồi thuyết phục cơ quan quản lý.
Có khi chứng minh được điều này xong, công ty đã không tồn tại rồi hoặc cơ hội sản xuất kinh doanh đã qua đi.
Do đó quan điểm của tôi là Chính phủ nên mở rộng gói hỗ trợ này cho tất cả các công ty, tất cả những món hình, kể cả công ty thuộc sở hữu nhà nước, công ty tư nhân,… và ở tất cả các ngành.
Bên cạnh đó, để công ty tiếp cận được gói cứu trợ, đặc biệt là gói tín dụng thì chính sách và quy định cho vay của ngân hàng cần có đổi thay. Chúng ta cũng có thể cân nhắc đến việc xài dữ liệu lớn trong quyết định cho vay. Đây cũng là một hướng siêu nhiều ngân hàng trên thế giới áp dụng.
-Theo ông, khoản vay ưu đãi về lãi suất cho các công ty trong thời khủng hoảng sẽ thực sự có hiệu quả khi đi kèm với những điều kiện thực tế hoặc thực thi như thế nào?
Cho vay ưu đãi của lần này khác hẳn với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009. Thời đó khi cho vay ưu đãi thì ngân sách sẽ bù đắp vào chênh lệch lãi suất, gây rất khó khăn cho hệ thống ngân hàng. một số vấn đề đến nay vẫn chưa giải quyết hết được.
Còn lần này, trừ ngân hàng Chính sách xã hội, thì đây là ưu đãi của các NHTM, xài nguồn thu nhập của mình để giảm lãi suất, chia sẻ rất khó khăn với công ty. Do đó khi ngân hàng xem xét khoản cho vay này, họ sẽ tuân thủ theo quy định, quy chế của họ trong thực hiện các khoản vay này.
Ngân hàng cũng có tính toán của họ, có trách nhiệm với việc hoàn vốn, tính đến rủi ro trong khoản cho vay. Do đó, cần tiếp cận từ 2 phía, ngân hàng cần tìm mọi cách để đơn giản hoá thủ tục. công ty thì có kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi, chuẩn bị điều kiện để khi nền kinh tế phục hồi thì sản xuất và có dòng tiền để trả ngân hàng. Cũng thừa nhận là tiếp cận chính sách ưu đãi là rất khó khăn, gặp nhiều rất khó khăn.
-Giả sử Việt Nam có khả năng khống chế được dịch sớm, Nhưng bên ngoài lãnh thổ dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nền kinh tế Việt Nam sẽ như thế nào khi bản thân có độ mở siêu lớn?
Việt Nam có thị trường 100 triệu dân, sức mua lớn. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn ra phức tạp trên thế giới, các công ty trong nước có thể tập trung vào thị trường nội địa để làm nền tảng. Trong kịch bản hồi phục kinh tế trình Chính phủ, Bộ KHĐT đặc biệt nhấn mạnh vào tiềm năng thị trường nội địa.
Mặc khác, Việt Nam có khả năng phục hồi ngay sau khi dịch kết thúc nhờ nền tảng kinh tế vĩ mô tốt. Lạm phát, bội chi ngân sách đang đi theo chiều hướng tốt. Trong 1 – 2 tháng đến có thể sẽ tăng lên đôi chút Nhưng chúng ta chấp nhận vì dịch bệnh.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư siêu quan tâm đến Việt Nam; Chính phủ cũng đang đề xuất tăng quy mô gói hỗ trợ. Do đó, nhìn trên các giác độ về tài khoá sẽ tạo đà cho Việt Nam tăng trưởng.
cám ơn ông!

— Bài viết lấy từ Cafef —